Đạo uống trà của người việt nam
Ở Việt Nam, Chúng ta trồng trà từ rất lâu rồi. Việt Nam cũng là quê hương của cây trà. Ở những vùng Hà Giang, Tuyên Quang chúng ta đã phát hiện được trên 40.000 cây trà hoang. Cây trà to như cây cổ thụ. Đường kính tán rộng tới 14 mét. Gốc cây đến 80cm đường kính. Có cây, hai ba người ôm không xuể. Có những cây trà cổ sống trên 300 năm tìm thấy ở suối Giàng. Màu nước xanh trông rất đẹp. Không phải chỉ ở nước thứ nhất mà cả ở nước thứ hai, thứ ba nước vẫn còn thơm ngon.
Trong lá trà có 13 nhóm chất bao gồm 120-130 hoạt chất khách nhau và còn nhiều chất chưa biết tới. Kỹ thuật chế biến trà là một nghệ thuật có trường phái và mang tính thời đại, chịu ảnh hưởng phong tục tập quán của từng nơi.

Chất lượng trà mà chúng ta quen dùng trước hết là do nguyên liệu quyết định, Muốn được trà ngon , trà phải được hái đúng một tôm hai lá. Có khi ba lá . Lá càng già, giá trị càng thấp. Quá trình chế biến thường có 5 khâu chính : làm héo, vò , ủ, sấy , phân loại. Từ một loại búp, ta có thể có 4 loại trà: trà đen, trà xanh, trà đỏ, trà vàng.
Trà xanh hương thơm ngát giữ được màu xanh trong nước hãm. Nước trà và vị trà nói được tấm lòng bao la của trà.Việt Nam ta chỉ sản xuất chủ yếu hai loại trà. Trà xanh và trà đen. Trà xanh cho cả nước dùng. Trà đen để xuất khẩu. Hương trà anh tự nhiên , rất ngat, tinh tế, nửa mùi rơm khô, nửa mùi hoa hồng và cam, chanh. Khó tả như tình yêu vậy. Riêng trà xanh, có trà xanh để mộc hoặc ướp hương sen, nhài, ngâu, sói, bưởi, hương liệu, dược liệu v.v…làm cho hương trà đa dạng. Trà Hồng Đào có hương thơm mạnh. Trà Thanh Tâm hương thơm mát dễ chịu.
Trà ướp Tĩnh Tâm, là loại trà ướp hương sen của các bậc quan tước triều Nguyễn. Cứ chập tối, họ sai gia nhân đi thuyền nan ra hồ Tĩnh Tâm, thả đầy sen ở Huế, cho một ít chè hảo hạng vào những bông sen đang nở rồi buộc chặt lại. Đến tảng sáng ngay hôm sau, người ta cởi lạt từng bông rồi lấy chè ra, mang ra pha uống.
Trở lại những năm 30-40 ở Hà Nội, có các loại trà: Chính Thái, Ninh Thái, Sinh thái… là những loại trà xanh phối trộn giữa các loại trà có hàm lượng dầu dẻo và hương thơm khác nhau lại để chúng bổ sung cho nhau rồi ướp bằng hương thơm có các vị thuốc băc tán thật nhỏ.

Người ta đựng trà vào những lọ sảnh, sứ hoặc thiếc… là tốt nhất. Nước để pha trà là phải đạt tiêu chuẩn bốn không: không vẩn đụng, không màu, không mùi, không vị. Nước pha trà phải sôi già vừa phải, không được quá sôi. Không nên là nước sôi hai lần. Sôi non lại càng không tốt. Bộ đồ trà gồm một ấm pha trà, một chén tướng (tống) và vài chiếc chén con hạt mít là chén (quân). Tất cả đều đặt trên những chiếc đĩa nhỏ vẽ rồng, phượng và bày trên chiếc khay bằng gỗ quý chạm trổ tỉ mỉ hoặc khảm trai. Có loại ấm độc ẩm, song ẩm, và đa ẩm. Trà được đưa vào ấm, giội nước sôi thật nhanh và đậy nắp lại. Nước sôi được giội lên nắp ấm và xung quanh để bên ngoài ấm cũng nóng. Đợi cho trà ngấm, rót tất cả nước cốt ra chén tống rồi pha ngay nước hai. Từ chén tống được chuyển qua cho các chén quân sao cho mỗi chén một nửa là nước cốt một nửa là nước hai. Trà uống lúc nước trà còn bốc khói nhẹ. Khách uống từng ngụm nhỏ một để thưởng thức vị và hương trà. Uống trà phải có bạn để còn tán chuyện tâm tình và thế sự mới là “ẩm nhi tri kỳ vị “. Một bộ đồ uống trà đẹp thường được bàn tán và được truyền từ đời nọ đến đời kia. Có khi gia đình tung quẫn cũng không chịu bán đi.
Người ta uống trà trong những ngày lễ, tết, hội hè, giỗ kỵ, họp mặt, trong những trường hợp tiễn đưua, kết bạn, làm quen…
Quanh bàn trà là hương khói , là tình bạn, là những mảnh tâm sự, là chuyện đạo, chuyện đời…
Nguồn: Tamcoc Memory restaurant and coffee sưu tầm.
2 Reviews
Nguyễn
Nếu thông tin hữu ích mời các bạn để lại bình luận nhé
Nguyễn
Nếu thông tin hữu ích mời các bạn để lại bình luận nhé